Kình địch với Tưởng Giới Thạch Uông_Tinh_Vệ

Lãnh đạo chính phủ Vũ Hán

Trong cuộc Bắc phạt, Uông Tinh Vệ là lãnh đạo hàng đầu trong phe tả của Quốc Dân đảng đã kêu gọi tiếp tục phối hợp với Đảng Cộng sản Trung Quốc. Mặc dù Uông phối hợp chặt chẽ với Đảng Cộng sản tại Vũ Hán, nhưng ông có tư tưởng đối lập với Đảng Cộng sản và có thái độ nghi ngờ với cố vấn Quốc tế cộng sản trong Quốc Dân đảng.[5] Ông không tin rằng người cộng sản có thể là những người yêu nước hay là người thật sự theo chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc.[6]

Đầu năm 1927, một thời gian ngắn trước khi Tưởng chiếm giữ được Thượng Hải và chuyển thủ đô về Nam Kinh, phe của Uông đã tuyên bố thủ đô của chính quyền Dân quốc là Vũ Hán. Trong khi cố gắng chỉ đạo chính phủ từ Vũ Hán, Uông đã cộng tác chặt chẽ với những nhân vật cộng sản hàng đầu, bao gồm Mao Trạch Đông, Trần Độc Tú, và Mikhail Markovich Borodin, phe của ông cũng kích thích các chính sách cải cách đất đai. Uông sau đó đã đổ lỗi cho thất bại của chính phủ Vũ Hán là do đã chấp thuận quá mức các chính sách cộng sản. Chế độ của Uông bị Tưởng Giới Thạch chống đối, Tưởng đã ở giữa một cuộc thanh trừng đẫm máu cộng sản tại Thượng Hải. Sự tách biệt giữa chính phủ của Uông và Tưởng được gọi là "Ninh Hán phân liệt" (giản thể: 宁汉分裂; phồn thể: 寧漢分裂; bính âm: Nínghàn Fenlìe).[7]

Tưởng Giới Thạch chiếm được Thượng Hải vào tháng 4 năm 1927, và bắt đầu một cuộc đàn áp đẫm máu đối với cộng sản gọi là thanh đảng. Trong vòng vài tuần lễ Tưởng đàn áp cộng sản tại Thượng Hải, chính phủ cánh tả của Uông đã bị một quân phiệt liên kết với phe Tưởng trong Quốc dân đảng tấn công và bị tan rã, cuộc chiến này đã khiến Tưởng Giới Thạch trở thành lãnh đạo tối cao và "hợp pháp duy nhất" của Trung Hoa Dân quốc. Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch chiếm các lãnh thổ từng do phe của Uông kiểm soát và tiến hành các cuộc thảm sát những người cộng sản bị nghi ngờ tại các khu vực: chỉ tính xung quanh Trường Sa, trên mười nghìn người bị giết chết chỉ trong 20 ngày. Lo sợ bị trừng phạt do là người có cảm tình với cộng sản, Uông công khai tuyên bố trung thành với Tưởng và đào thoát đến châu Âu.[8]

Hoạt động chính trị trong chính phủ Tưởng

Từ năm 1929 đến 1930, Uông đã hợp tác với Phùng Ngọc TườngDiêm Tích Sơn để lập một chính phủ trung ương đối lập với Tưởng. Uông đã tham gia một hội nghị do Diêm tổ chức để soạn thảo một hiến pháp mới, và phục vụ với vai trò Thủ tướng (Viện trưởng Hành chính viện) dưới chính quyền của Diêm, người sẽ là Tổng thống. Các nỗ lực của Uông nhắm hỗ trợ chính phủ của Diêm đã kết thúc khi Tưởng đánh bại liên minh trong Đại chiến Trung Nguyên.[9][10]

Năm 1931, Uông tham gia một chính phủ chống Tưởng khác tại Quảng Châu. Sau khi Tưởng đánh bại chế độ này, Uông hòa giải với chính quyền Nam Kinh của Tưởng và giữ các chức vụ nổi bật trong hầu hết thập kỷ. Uông được bổ nhiệm làm Viện trưởng Hành chính viện trong lúc trận Thượng Hải (1932) bắt đầu. Ông thường xuyên có tranh chấp với Tưởng và đã định từ chức để phản đối vài lần song đơn từ chức đã bị hủy bỏ. Do hậu quả của các đấu tranh quyền lực trong Quốc Dân đảng, Uông đã buộc phải dành nhiều thời gian để sống lưu vong. Ông đã tới Đức, và duy trì một số mối liên hệ với Adolf Hitler. Hiệu quả lãnh đạo của Quốc Dân đảng đã liên tục bị cản trở bởi lãnh đạo và các cuộc đấu tranh cá nhân, như giữa Uông và Tưởng. Vào tháng 12 năm 1935, Uông vĩnh viễn rời khỏi chức Thủ tướng sau khi bị thương nặng trong một vụ ám sát diễn ra một tháng trước đó.

Trong Sự biến Tây An năm 1936, Tưởng Giới Thạch bị tướng Trương Học Lương bắt giữ, Uông đã ủng hộ việc gửi một phái đoàn trừng trị để tấn công Trương. Ông dường như đã sẵn sàng để hành quân song phu nhân của Tưởng là Tống Mỹ Linh và anh trai bà là Tống Tử Văn sợ rằng nếu hành động như vậy thì có thể đe dọa đến tính mạng của Tưởng và như vậy Uông sẽ thay thế vị trí của Tưởng, vì vậy họ đã phản đối thành công hành động này.[11]

Uông đi cùng với chính phủ Quốc dân rút lui đến Trùng Khánh trong Chiến tranh Trung-Nhật (1937–1945). Trong thời kỳ này, ông đã tổ chức một số nhóm cánh hữu có phương hướng phát xít bên trong Quốc Dân đảng. Uông ban đầu thuộc nhóm chủ chiến; tuy nhiên, sau khi chứng kiến quân Nhật chiếm đóng thành công một phần lớn duyên hải Trung Quốc, Uông đã có quan điểm bi quan về cơ hội của Trung Quốc trong cuộc chiến chống Nhật.[12] Ông thường bày tỏ ý kiến chủ bại tại các buổi họp tham mưu Quốc Dân đảng, và tiếp tục bày tỏ quan điểm của ông rằng chủ nghĩa đế quốc phương Tây là mối nguy hiểm lớn hơn cho Trung Quốc, khiến các cộng sự của ông rất thất vọng. Uông tin rằng Trung Quốc cần phải tìm kiếm giải pháp thông qua đàm phán với Nhật Bản để châu Á có thể chống lại các cường quốc phương Tây.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Uông_Tinh_Vệ http://members.optusnet.com.au/~alevrass/Nanking_C... http://hi.baidu.com/wccj/blog/item/a8f2dd54a6218e5... http://neobservation.blogspot.com/2011/03/blog-pos... http://neobservation.blogspot.com/2011/03/blog-pos... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/635349/W... http://www.edubridge.com/erxiantang/l2/wangjingwei... http://books.google.com/books?id=NztlWQeXf2IC http://books.google.com/books?id=rfu-hR8msh4C&pg=P... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,7... http://www.hkfront.org/20060201ch-7a.htm